I. BỐI CẢNH, DIỄN BIẾN VÀ KẾT QUẢ CHIẾN DỊCH
1. Bối cảnh lịch sử
Chiến thắng vang dội của quân và dân miền Nam ở Ấp Bắc ngày 02/01/1963 đã xây dựng cơ sở kế hoạch Staley - Taylor, tiếp tục Tuyên truyền quân đội, Võ quyền vào vấn đề nguy hiểm không thể nghiên cứu xin lỗi . Qua đó, đồng bào ta càng thêm tin tưởng vào khả năng chiến thắng trong chiến thắng Mỹ xâm lược. Sau thắng lợi trên, chủ tài khoản của Đảng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát động “Thi đua ấp Bắc, bom giặc lập công”, chiến quyết tiến công tiêu chuẩn quân, làm phá sản chiến thuật “ trực thăng” và “thiết bị chạy” của họ.
Bước vào năm 1964, phong trào cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam tiếp tục phát triển. Ta đã phá tan và khai phá vàng hàng ngàn “ấp chiến lược” của vương quốc, mở ra nhiều vùng giải phóng. Phong trào chiến tranh du kích phát triển khắp nơi, bộ đội địa phương có bước phát triển mới đã chiến đấu tiêu đại quân, tiểu đoàn quân, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch lập “ấp chiến lược” của vương quốc quốc gia, Cung cấp Mỹ - ngụy ngày càng lâm vào thế thất bại và suy yếu béo nguy hiểm, làm cho chắc chắn giữa Mỹ và tay sai, nhất là giữa bọn cướp sai đầu sỏ trở lên gay tấn công và tàn bạo, không thể đánh được . Mỹ cho rằng, nguyên nhân chính của tình hình đó là nhóm tay sai Ngô Đình Diệm bất tài, bất lực và đến tháng 11/1963, Mỹ đã chỉ đạo một số tướng lĩnh quân đội Sài Gòn làm đảo chính, Cô gái Ngô Đình Diệm, đưa Dương Văn Minh rồi Nguyễn Khánh lên thay. Nhưng bọn cướp mới tiếp tục đấu đá nhau và không chống cuộc tiến công nổi ngày càng mạnh của quân và dân miền Nam. Từ tháng 3/1964, đế quốc Mỹ thực hiện kế hoạch Giônxơn - Mac Namara, trâu bình định miền Nam trong vòng 2 năm (1964-1965), Lướt chiến lược “tranh chiến đặc biệt” lên đỉnh cao, dùng ưu thế quân sự và mọi thủ đoạn chống độc, tàn bạo phong cách cách mạng, hòng nghiên cứu nguy cơ thiết bị hạ bệ hoàn toàn của ngụy quyền tay sai trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Cuối năm 1963, Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đánh giá thắng lợi của quân và dân miền Nam sau 2 năm tiến hành chiến tranh cách mạng chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt ”, xác định phương câu châm ngôn chiến lược chiến đấu lâu dài, đồng thời tích cực tranh thủ và sáng tạo thời cơ để giành chiến thắng trong thời gian tương đối ngắn.
Trên cơ sở đã xác định tình hình và quyết tâm tiến hành chiến tranh cách mạng ở miền Nam, Hội nghị Trung Quốc địa phương Nam đã xác định phương hướng nhiệm vụ năm 1964 -1965 là: “động Ra viên toàn Đảng, toàn quân , toàn dân tranh thủ, thời cơ liên tục tiến công chiến đấu, chiến đấu quyết định chiến lược Giônxơn - Mac Namara, làm sơ đồ chiến lược quân đội đánh phá có trọng điểm và tập hợp dân dân lập “ấp chiến lược” của chiến tranh thất bại đánh nền tảng nặng nề, làm cho lực lượng của họ thất bại nhiều hơn nữa, đồng thời khẩn trương xây dựng thực lực ta, đặc biệt là xây dựng lực lượng vũ trang trang trang 3 thứ ba, tạo ra những điều điều kiện cần thiết để sang năm sau có thể mở rộng tích tích để cho phong trào, tiến lên chiến thắng quyết định” [1] .
Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền cũng xác định tâm: “Trước mắt tiếp tục tiến công, tiêu diệt và làm tan các đơn vị bảo an, dân vệ, đặc biệt và các lực lượng bán vũ trang quân đội, phá “ chiến lược hỗ trợ nâng cao năng lực chiến đấu chính của quần chúng. Đồng thời nâng cao khả năng hoạt động của lực lượng chủ, tiến tới chiến đấu tiêu làm săn đuổi từng bộ phận chủ lực của quân đội, không ngừng nâng cao trình độ chiến đấu, vận động chiến của lực lượng chủ ta ở bàn chiến lược địa phương, tiến tới làm cho vai trò của trò chơi chiến đấu giữ vị trí đã được quyết định…” [2] .
Để vận dụng biện pháp đúng đắn của Trung tâm Cục Nam, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền chủ tài khoản mở chiến dịch chiến tập trung trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Đó là yêu cầu khách hàng có tính chất chiến lược dẫn đến sự xuất hiện chiến dịch đầu tiên của lực lượng chủ ta ở miền Đông Nam Bộ trong cuộc phản chiến chống Mỹ cứu nước.
2. Đặc điểm tình hình và chuẩn bị của ta
a. Đặc điểm hình ảnh
“Ấp chiến lược” Bình Giã (nay thuộc huyện Châu Đức, Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) nằm trên hướng dẫn 327 cách chi khu Đức Thạnh (tỉnh Bà Rịa cũ) 4 km, chiều dài của ấp khoảng 4 km, với 4.000 dân di cư theo thiên thần hoàng, phần lớn là gia đình hậu phương của các lực lượng quân đội và thủy quân lục chiến ngụy; đây là “ấp chiến lược” “kiểu mẫu” của quân chủ, trong đó số đông Nhân dân được thiết lập lý do phản động mê hoặc được lợi ích chống phá ta.
Địa hình khu vực Bình Giã phần lớn là vùng đất đỏ, rừng bằng, cây nhỏ, xen kẽ một ít đồi núi, nhiều đồn điền cao su rộng lớn nằm ven theo 2 bên trục ngang ngang số 2, có một số điền điền sâu trong căn cứ của ta bỏ hoang cây cỏ kín đáo, thuận lợi cho ta ém cư dân và lợi ích quân đội, cơ động lực kín, bí mật. Ngược lại, địa hình này không có lợi cho quân đội cơ giáp cơ giáp, khó quan sát phát hiện ta, dễ dàng được ta phục kích tiêu diệt, quân chủ phải phụ thuộc vào dây miễn phí chính để vận động tiếp theo và hành quân chi viện cho nhau.
Về đường xá, quốc gia lộ số 15 từ Vũng Tàu qua Bà Rịa lên quốc gia số 1 Biên Hòa - Sài Gòn và đường liên tỉnh lộ số 2 từ thị trấn Xuân Lộc (Đồng Nai) lên quốc gia số 1 chạy xuống Bà Rịa . Đây là những con đường huyết có tính chất chiến lược của quân đội nên Mỹ và tay sai ra sức củng cố. Ngoài ra còn có 327 nối liền chi khu Đức Thạnh với “ấp chiến lược” Bình Giã - Xuân Sơn.
Từ cuối năm 1964, để nghiên cứu sự thất bại của quân đội Sài Gòn, Mỹ và chính quyền tay sai gấp rút phát triển khai kế hoạch bình định trọng điểm, tổ chức khu vực Bình Giã, Đức Thạnh, Long Điền, Xuyên Mộc , Đất Đỏ thành 4 chi khu quân sự với lực lượng gồm 4 tiểu đoàn đặc động quân (30, 33, 35, 38), 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến (1, 4) của Lữ đoàn 147, 2 tiểu đoàn dù (5, 6), 3 tiểu đoàn bảo an, 2 trung đội pháo binh 105 mm và 1 chi đoàn xe thiết giáp M113. Mỗi chi khu có từ 1 đại vương đến 1 tiểu đoàn bảo an đóng giữ; riêng “ấp chiến lược” Bình Giã, tổ chức quân sự chuyên trách bảo vệ, chống phá ta quyết định. Làm chất quan trọng của tỉnh Bà Rịa, hãy chiến đấu ra sức củng cố tỉnh này để tạo thành thế phòng thủ phương án ngữ phương Bắc và Đông Bắc, bảo vệ căn cứ quân sự Vũng Tàu.
b. Sự chuẩn bị của ta
Chấp nhận chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh và phương pháp hoạt động tác chiến Đông Xuân 1964 - 1965, đầu tháng 11/1964, Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch tiến công tại khu vực Bình Giã - Đức Thạnh - Đường số 2 (cách Sài Gòn 70 km về phía đông), trên địa bàn các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa, Bình Thuận (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai và nam tỉnh Bình) Thuận) với diện tích gần 500km 2 , trong đó xác định hướng chủ yếu yếu là Bà Rịa - Long Khánh, hướng phối hợp là Nho Trạch, Long Thành (Biên Hòa) và Hoài Đức, Tánh Linh (Bình Thuận) tấn tiêu một bộ phận sinh lực, phá kế hoạch bình định trọng điểm của ngụy quyền Sài Gòn, hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy phá “ấp chiến lược”, thúc đẩy chiến tranh du kích, mở rộng vùng căn cứ cách mạng. Bộ Tư lệnh Chiến dịch được thành lập gồm: Tư lệnh Trần Đình Xu, Phó tư lệnh Lê Văn Tưởng, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Nguyễn Hoà, Phó chính ủy Lê Xuân Lưu, Phó Tư lệnh Nguyễn Hồng Lâm (Hải Bứa). Lực lượng tham gia chiến dịch có 2 trung đoàn bộ binh (761, 762), Đoàn pháo binh 80 (4 tiểu đoàn), 2 tiểu đoàn bộ binh (500, 800) chủ lực Quân khu 7; Tiểu đoàn 186 chủ lực Quân khu 6, Đại đội 445 bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa cùng lực lượng dân quân, du kích. Căn cứ nhiệm vụ được giao, ngày 15/11/1964, Bộ Tư lệnh Chiến dịch thông tin quyết định tâm tác chiến dịch.
Đây là lần đầu tiên Bộ Chỉ huy Miền tập trung năng lượng lớn, cơ động chiến đấu trên địa bàn rộng, xa hậu phương. Để bảo mật bí mật, tạo thuận lợi cho công ty chuẩn bị và phát triển chiến dịch, đánh lạc hướng hướng dẫn dự đoán của quốc vương, Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo thúc đẩy hoạt động của lực lượng vũ trang trang địa phương trên các chiến trường, lực lượng quyền phải phân tán đối số trên nhiều hướng. Với nỗ lực, chủ động và phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, đến ngày 20/11/1964 về cơ bản ta đã hoàn thành thành công chuẩn bị, trong đó vận động được 500 tấn vũ khí, hơn 200 tấn lương thực..., đáp ứng kịp thời đảm bảo các đơn vị vị trí tập kết hợp đúng quy định: Trung đoàn 761 ở nam Xuân Sơn, Trung đoàn 762 ở đông nam núi Nghệ, pháo binh ở Vạn Kiếp và tây bắc Đức Thạnh; Sở chỉ huy Chiến dịch đặt ở núi Nưa.
3. Diễn biến và kết quả của chiến dịch
a) Diễn biến chính (được dịch tiến hành theo 2 khối)
Trận 1 (17/2-12/1964): rạng sáng 2/12, trong khi một bộ phận bộ binh, súng khí của Trung đoàn 761 bao vây, Kiềm chế chi khu quân sự Đức Thạnh, Đại đội 445 tỉnh Bà Rịa nổ súng tiến công “ấp chiến lược” Bình Giã nhưng không dứt điểm, gần sáng phải rút ra ngoài. Sáng 12/3, quân chủ cho Tiểu đoàn Biệt động quân 38 đổi bộ bằng máy bay trực thăng xuống tây nam Đức Thạnh để giải phóng, khôi phục ấp Bình Giã. Bộ Tư lệnh Chiến dịch chủ nhà tiếp tục tiến công Bình Giã, tạo áp lực ở khu vực này, thống trị phải ra giải phóng để ta tiêu diệt. Đêm 12/7 ta sử dụng Đại đội 445 và 1 đại đội của Trung đoàn 762 tiến công Bình Giã lần 2; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 761) và Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 762) đánh thẳng vào chi khu quân sự Đất Đỏ; lực lượng pháo binh Miền tập kích lực vào các chi khu Xuyên Mộc, Đức Thạnh, cơ sở huấn luyện luyện kích Vạn Kiếp.
Trước áp lực ngày càng tăng của ta ở Bình Giã - Đức Thạnh, ngày 12/9 sử dụng Chi đoàn thiết giáp 3 (Thiết giáp 1) không quân y điểm hỗ trợ mở cuộc hành quân quân “Bình Tuy 33” càn quét dọc đường 2, đoạn từ Bà Rịa lên Đức Thạnh. Trung đoàn 762 bố trí sẵn trận địa kích nhưng không được đánh (do quân hành không đúng hướng ta dự kiến), đã kịp cơ động về phía đông núi Nghệ thuật (đường 2 khoảng 4 km). Tại đây, ngày 12/13, đoàn xe đua từ Đức Thạnh trở về vòng chung kết trận địa trang kích, Trung đoàn nhanh chóng vận động tiến công, sau gần 1 giờ chiến đấu chống gọn Chi đoàn thiết giáp 3, giải đấu nhiều xe thiết giáp, máy bay trực thăng và năng lực sinh học, thực hiện chiến thắng ở giai đoạn thứ ba của chiến dịch lợi ích. Trong khi đó, hướng dẫn phối hợp Hoài Đức, Tánh Linh, Tiểu đoàn 186 Quân khu 6 đánh sử dụng “ấp chiến lược” Mê Pu, chặn chiến tranh bình quân từ Hoài Đức, La Gi lên ứng cứu, đánh thiệt hại nặng 3 đại vương bảo an, 1 đại vương dân vệ.
Kết thúc giai đoạn 1, Bộ tư lệnh Chiến dịch nhận định: mặc dù vũ khí thất bại và lâm vào thế tự do, thiết bị, nhưng do tầm quan trọng của khu vực Đức Thạnh - Bình Giã, nên chiến vẫn cố gắng giữ bằng mọi giá và sẽ cung cấp lượng cơ sở cho nghiên cứu. Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định tập trung toàn bộ lực lượng trên khu vực Đức Thạnh - Bình Giã, đường 2, chiến đấu và trụ lại ấp Bình Giã, đồng thời uy hiếp chi khu Đức Thạnh, chiến đấu đến khu vực đã mạnh chọn để thực hiện kết thúc rồi quyết định. Trong thời gian chuẩn bị cho chiến 2, đêm 22/12 chuyến tàu sương 44 tấn vũ khí từ miền Bắc vào bến An Lộc đã kịp cung cấp cho chiến trường miền Đông, góp phần tạo thêm sức mạnh cho các đơn vị tham gia chiến dịch.
Trận 2 (27/12/1964 - 1/3/1965): đêm 27/12, Trung đoàn 761 sử dụng 2 đại vương phân phối hợp với Đại đội 445 chiến đấu sử dụng “ấp chiến lược” Bình Giã và tổ chức chức năng cuối cùng. Đồng thời, ta sử dụng lực ĐKZ và súng khí ở tây bắc Ngãi Giao bắn phá chi khu quân sự Đức Thạnh. Sáng 28/12, quân chủ cho Tiểu đoàn Biệt động quân 30 ở Bà Rịa đổi bộ bằng máy bay trực thăng xuống khu vực Trảng Trống ở tây nam Đức Thạnh, từ đó chia thành 3 mũi tiến vào Bình Giã, nhưng bị ta chặn đánh Danh sách, phải rút ngắn về quyết định La Vân. Trưa cùng ngày, vương quốc tiếp tục sử dụng máy thăng trực thăng Tiểu đoàn biệt động quân 33 từ Biên Hòa biến xuống đông bắc ấp Bình Giã, nhưng cũng được thiết bị lực phòng không của ta chế chế áp dụng, phải chuyển hướng xuống khu vực cánh đồng trung ở phía đông nam Bình Giã, cách hoàn kích của ta khoảng 500 m. Nắm bắt thời cơ chiến đấu chưa đáp ứng khai sáng đội hình, Trung đoàn 761 cho bộ đội xuất kích bao vây tiến công, đến 18 giờ làm chủ hoàn toàn trận địa, tiêu diệt phần lớn quân vương, bắn rơi 18 máy bay trực thăng, hoàn thành công giành được lợi ích ở thời điểm thứ hai của chiến dịch.
Ngày 30/12, cờ vua cho máy bay thăng thăng Tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến 4 thuộc lực lượng tổng dự án chiến lược chuyển bộ xuống đông nam ấp La Vân 600m (gần quận lị Đức Thạnh) để cùng Tiểu đoàn biệt động quân 30 phản xạ sử dụng lại Bình Giã. 18 giờ cùng ngày, ta bắn rơi 1 máy thăng trực ở Quảng Giới Quân một số quân cờ, trong đó có 4 chiến sĩ Mỹ (có 1 trung tá). Nhận được vương quyền sẽ tổ chức tìm kiếm đồng đội, Bộ Tư lệnh Chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 761 khẩn trương bố trí hậu địa vũ tại đây. Đúng như dự kiến của ta, 14 giờ 30 phút ngày 31/12 khi Tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến 4 đến Quảng Giới, Trung đoàn 761 đã kịp thời nổ súng, bao vây chia cắt, tiêu diệt từng bộ phận, đến 18 giờ , sức mạnh của ta đã hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt gần 600 quân, thu toàn bộ vũ khí, hoàn thành lợi ích trận sau đó thứ ba của chiến dịch.
Để cứu nguy cho Đức Thạnh và cố gắng sử dụng lại Bình Giã, ngày 01/01/1965 quân huy động khoảng 2 chiến quân mở cuộc hành quân giải toả mang tên “Hùng Vương 2”. Phán đoán chính xác định hướng hành quân của quân vương, Trung đoàn 762 phục kích tại khu vực Cóc Tiên quân đoàn xe 10 Chiếc và 1 đại quân vương trên đường 15 từ Vũng Tàu về Sài Gòn. Tiếp đó, ngày 01/3, trung đoàn tiếp tục phục kích trên đường số 2 từ Bà Rịa lên Đức Thạnh, giáp quân xe 16 chiếc, đánh thiệt hại tiểu đoàn biệt động quân 35. Cùng ngày, Tiểu đoàn 800 Quân khu 7 tập kích trại kích Bình Sơn, phối hợp với du kích Long Thành diệt quân Tam An, Phước Thọ, hỗ trợ quần chúng phá “ấp chiến lược”. Trên hướng Hoài Đức - Tánh Linh, ta bao vây chi khu Hoài Đức, đánh sử dụng các “ấp chiến lược” Mê Pu, Sùng Nhon, Đậm Rim, Tà Bảo, làm tan dư lực lượng dân vệ ở đây. Ngày 1/3/1965, Bộ Tư lệnh quyết định kết thúc chiến dịch.
b. Kết quả chiến dịch: ta loại trên 1.700 quân (bắt 293), trong đó quân giáp Tiểu đoàn Biệt động quân 33, Tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến 4 và 1 chi đoàn thiết giáp M113; đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn đặc động quân (30, 35, 38), 7 đại đội bảo an; làm tan rã hầu hết năng lượng dân vệ trong khu vực; giải đấu và phá hỏng 45 xe quân sự (phần lớn là M113), bắn rơi, bắn cháy, bắn hỏng 56 máy bay các loại, do đó hơn 1 bắn súng và gần 100 máy thông tin các loại; Phá hàng loạt “ấp chiến lược” ven đường số 2 và đường số 15, giải phóng vùng ven Hàm Tân và toàn bộ huyện Hoài Đức, mở rộng căn cứ Hát Dịch (Bà Rịa) nối liền với Chiến khu Đ và căn cứ Bình Thuận, đảm bảo căn cứ tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc vào bằng đường biển.
II. Ý NGHĨA LỊCH SỬ DỤNG CỦA CHIẾN DỊCH
Chiến thắng Bình Giã (1964 - 1965) đã đi vào lịch sử cuộc chiến phản Mỹ, nghiên cứu nước của dân tộc, tạo ra thế và lực mới, góp phần thúc đẩy nhanh sản sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Của tôi. Chiến thắng có ý nghĩa chiến lược to lớn, ảnh hưởng sâu rộng ở trong và ngoài nước, khẳng định tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta, đặc biệt là lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam trong đạo và tiến hành chiến tranh cách mạng, nổi bật là:
Một là, chiến thắng đã khẳng định sức mạnh tiềm tàng của Trung Quốc Đảng, trực tiếp là Trung Quốc Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy Miền, cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng và mở ra khả năng mới cho cách mạng miền Nam tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, Quân đội và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch Bình Giã với mục tiêu tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân đội, phá kế hoạch bình định có trọng điểm của quân đội, khám phá “ấp chiến lược ”, hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng khu vực căn cứ, đánh bại căn cứ cơ sở của quân đội Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Tinh thần ấy được cụ thể hóa bằng ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết đánh bại kẻ thù xâm lược. Cổ vũ quân và dân ta phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, không khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, góp phần quan trọng làm nên giành được lợi ích của chiến dịch, cung cấp vương quốc ở tình trạng ngày càng tốt suy yếu. Đánh giá về chiến dịch, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Trong quá trình chiến tranh giải phóng ở miền Nam đã diễn ra những bước nhảy vọt. Với trận Ấp Bắc năm 1963, vương thấy khó thắng ta, sau chiến dịch Bình Giáp thấy thắng ta”.
Hai là, chiến thắng đã tạo ra các bước trong so sánh sức mạnh và địa phương chiến trường có lợi cho ta, góp phần quan trọng đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của quân chủ, mở ra những điều kiện quan trọng để tiến trình đánh bại các chiến lược âm mưu của Mỹ - ngụy biện.
Cuối năm 1962, quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã lên tới 11.300 tên và có 13 đại đội máy bay trực thăng, 5 đại vương máy bay trinh sát, oanh chém, vận tải, 4 phi phản lực chiến đấu với 257 máy bay các loại, 8 đại vương công binh, thông tin và 1 đơn vị thuộc lực lượng đặc biệt; 331 tàu, có. Đặc biệt, Mỹ đã tăng cường hỗ trợ quân sự: năm 1961-1962, có 321,7 triệu USD (80 triệu USD vũ khí); năm1962-1963, tăng tới 675 triệu USD (100 triệu USD vũ khí); Quân ngụy đã tăng nhanh (năm 1960 là 16 vạn quân chính quy, năm 1962 lên 36,2 vạn quân; lực lượng bảo an năm 1960 là 70.000 tên, năm 1962 lên 174.500 tên; Lực lượng vệ binh gồm 128 đại đội và hơn 1.000 trung đội, 2.000 tiểu đội).
Sau chiến thắng Bình Giã của quân đội và dân miền Nam, việc so sánh lực lượng trên chiến trường đã thay đổi theo hướng có lợi cho ta. Lực lượng vũ trang giải phóng với ba thứ quân đã mạnh mẽ vượt bậc, cụ thể: năm 1963 là 72,6 vạn người (7 trung đoàn chủ lực); năm 1964 quân số đã tăng lên 103.986 vạn người (10 trung đoàn chủ lực). Đã mở rộng khu vực giải phóng, sử dụng phần lớn lãnh thổ Nam, trở thành hậu phương trực tiếp và vững chắc của cách mạng Nam miền.
Về chiến quân, căn cứ chủ yếu của “chiến tranh đặc biệt” là nguỵ quân, nguỵ quyền; hệ thống “ấp chiến lược” và thành thị đều là phổi lay tận gốc. Hầu hết sức mạnh vũ trang địa phương của quân vương bị tan rã, hệ thống “ấp chiến lược” bị hạ bệ đến 4/5, các tầng lớp trung gian ngày càng ủng hộ xu hướng chống Mỹ, ủng hộ hòa bình, trung setting. Từ tháng 11/1963 - 6/1965, đã xảy ra 14 cuộc đảo chính và phản đảo chính trong chính quyền ngụy quyền Sài Gòn.
Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch tiến công đầu tiên của bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, góp phần vào việc chuyển hóa tương quan so sánh sức mạnh trên chiến trường, tạo ra thế và lực mới trong những năm đầu cuộc chiến chiến chống Mỹ, tình nước.
Ba là, chiến thắng Bình Dương đã đánh dấu bước trưởng thành vượt qua cấp độ chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam , nhất là về nghệ thuật chiến dịch, sử dụng năng lượng, vận dụng cách đánh cũng như các hoạt động chiến tranh khác .
Chiến thắng Bình Giã đã hoàn thành xuất sắc 3 mục tiêu: Tiêu diệt một bộ phận sinh quân quân; hỗ trợ phong trào đấu tranh chính, ấp chiến lược; mở rộng vùng giải phóng biển, xây dựng bến tiếp nhận từ miền Bắc vào miền Nam. Đặc biệt lựa chọn điểm khêu ngòi tiến công Bình Giã, Bộ chỉ huy miền chỉ đạo lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ thúc mạnh hoạt động tiến công công trên khắp chiến trường hãy đột phá, kéo, thu hút sự chú ý của chúng tôi về hướng khác, nghi binh, giữ bí mật làm vua phán đoán sai ý định của ta, thậm chí còn điều quân ra xa Bình Giã; xác định chính xác ý đồ tăng viện, ứng dụng, giải tỏa bằng không quân đoàn, từ đó chỉ đạo sức mạnh phòng không chiến dịch nghiên cứu kỹ năng hình, chủ động có phương án đón lõng chiến đấu máy bay chiến đấu, quân đội bộ. Vì thế, tiêu diệt được hầu hết các máy của chúng. Thắng lợi đó, make Bộ Quốc phòng Mỹ phải thú nhận: “Mối thất vọng của Oa-sinh-tơn đối với tình hình quân sự ngày càng tăng lên khi quân đội Sài Gòn bị một cú thất bại được thấy trong trận đánh ác ở đây Bình Giã ”.
Bốn là , chiến thắng Bình Giã đã khẳng định tài khoản chủ đúng về sự cần thiết phải nhanh chóng xây dựng lượng vũ trang trang tập trung, quả đấm chủ lực, để đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của quân vương .
Chiến thắng Bình Minh đã chứng minh được sự cần thiết phải nhanh chóng xây dựng bộ lực lượng quân đội để nâng cao quá trình tác chiến, tổ chức tiến trình hoạt động của các tập trung dịch chiến nhanh hơn trên chiến trường miền Nam. Đại tướng Lê Trọng Tấn, Tổng Tham mưu trưởng QDND Việt Nam (khi ấy là Thiếu tướng, Phó Tổng Tham trưởng - Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam) đã khẳng định: “Chiến dịch Bình Giã, chúng ta chỉ tung 2 trung đoàn mà vương quốc phải chịu thất bại nặng nề. Nếu chúng ta có thêm quân chủ, chắc chắn sẽ giành chiến thắng nhanh chóng, vang dội hơn. Vì vậy, thời gian để cùng phát triển dân quân, du kích khắp nơi phải đặc biệt chăm sóc xây dựng những “quả đấm” chủ lực có khả năng tấn công tiêu diệt lớn, thực hiện xoay chuyển địa chiến chiến trường” .
Năm là, chiến thắng Bình Giã đã mạnh mẽ thúc đẩy làm sản phẩm chiến lược chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, báo hiệu sự suy giảm tất yếu của ngụy quyền Sài Gòn và sách quốc gia “ấp chiến lược”, chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận” của Mỹ - ngụy .
Chiến thắng Bình Giã thực sự là đòn quyết định, góp phần làm thất bại quốc gia sách “ấp chiến lược” vấn đề “xương sống” trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và chiến thuật “thiết xa vận” , “trực thăng vận” của Mỹ - ngụy; đánh dấu sự phát triển hoàn thiện sản phẩm của chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận” của Mỹ - ngụy biện, làm cho họ không còn tin tưởng nhiều vào chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”. Bình Giã chính là dấu hiệu cho sự thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, một bộ phận của chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ ứng dụng vào chiến trường miền Nam Việt Nam.
Cùng chiến thắng Bình Giã, quân và dân ta trên khắp các chiến trường miền Nam đã tiến hành các hoạt động tác chiến với quy mô khác nhau, như: An Lão (30/11 - 08/12/1964), Đồng Xoài (5/10 - 22/7/1965), Ba Gia (28/5 - 20/7/1965),… góp phần làm phá sản toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Đế quốc Mỹ.
III. PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ TRỌNG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Dự báo tình hình thế giới, khu vực trong những năm tới có nhiều thay đổi phức tạp, khó khăn, khó dự án, tác động đến sự ổn định của thế giới, khu vực và mỗi quốc gia. Trong nước kinh tế - xã hội chuyển tích tích cực, đảm bảo chắc chắn quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,… nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, công thức, do đó tập trung xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, hiệu quả các bài học, kho báu kinh nghiệm quý giá của Chiến thắng Bình Giã và các trận chiến, chiến dịch tiêu biểu trong chiến tranh giải phóng dân tộc vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời điểm mới:
- Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giá trị văn hóa, khát vọng phát triển đất nước, sức mạnh con người Việt Nam, thực hiện thắng lợi quyết định Đại hội XIII của Đảng phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh, pháo vinh, văn minh và hạnh phúc.
- Tiếp tục quán triệt, phát triển thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Cố giữ độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; hiển quyết, hiển thị bảo vệ vững chắc, chủ quyền, thống nhất, toàn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; Củng cố môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tập trung chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh mộc, năng lượng, tạo tiền đề vững chắc , phấn chiến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững chắc về chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi vấn đề.
- Thực hiện lợi ích tài chính, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội gắn kết với cố gắng quốc phòng, an ninh 6 vùng chiến lược của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn nhìn đến năm 2045, trọng tâm Nghị quyết quyết định số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị “về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh khu vực Đông Nam Bộ đến năm 2030 , tầm nhìn đến năm 2045”.
- Nghiên cứu, tổng kết, vận dụng kinh nghiệm chiến đấu trong các cuộc chiến tranh trên thế giới phù hợp, phát triển nghệ thuật quân sự trong tình hình mới phù hợp với tổ chức, năng lượng, trang thiết bị và cách chiến đấu của Việt Nam. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng huấn luyện huấn luyện, giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu cho bộ đội. Tập trung xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có lĩnh vực Chính trị Vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; có tinh thần, có ý chí, quyết tâm chiến đấu cao “dám đánh, biết đánh và quyết thắng”. Chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, cung cấp “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch và mọi âm mưu, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, lãnh thổ của Tổ quốc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân dân, xây dựng nền tảng phòng toàn dân dân, thế trận phòng toàn dân gắn kết với nền tảng an ninh nhân dân chắc chắn, làm nền tảng cho dịch vụ bảo vệ tổ quốc.
Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Bình Giã là dịp để họ xem lại truyền thống lịch sử cách mạng, tri ân công lao cống, hy sinh quân đội và dân ta trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước; tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc, bản lĩnh, trí tuệ, sức mạnh và ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam, tặng phần mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới./.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG PHƯƠNG - TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ QĐND VIỆT NAM
[1] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch Bình Giã Đông Xuân 1964-1965 , nhà ở Bộ Tham mưu Quân khu 7, tháng 4/1988, tr6.
[2]Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch Bình Giã Đông Xuân 1964-1965 , Sđd, tr6.