Vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
Trong hệ thống di sản lý luận mà V.I.Lê-nin để lại, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với tổ chức đảng. Người cho rằng, một trong những biện pháp để chống quan liêu là kiểm tra các cấp ủy địa phương có chấp hành các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước hay không. Người nhấn mạnh, việc kiểm tra đảng viên và kiểm tra việc chấp hành thực tế công tác là mấu chốt của toàn bộ công tác. Và đó không phải là việc làm trong một vài tháng, hay một năm, mà là việc làm trong nhiều năm, nên cần phải tiến hành kiểm tra, tiến hành thực hiện trên thực tế từng “công việc” một. Tiếp nối tư tưởng của V.I.Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”(2). Người nhấn mạnh: “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết,… kiểm tra khéo, về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”(3). Những quan điểm, tư tưởng của V.I.Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đã toát lên một số vấn đề cơ bản: Một là, khẳng định vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát là phương thức hoạt động quan trọng của Đảng. Hai là, làm cho cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần, trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Ba là, làm cho tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tạo sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động, góp phần thực hiện thắng lợi yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Bốn là, nhằm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên giữ vững bản lĩnh, lập trường, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, nói và làm theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng và cảnh tỉnh, cảnh báo, ngăn ngừa cán bộ, đảng viên khác.
Trong bối cảnh hiện nay, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đối với cán bộ, đảng viên có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong giữ vững ổn định chính trị, xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức”(4).
Hiện nay, có thể khái quát vị trí, vai trò của việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đối với cán bộ, đảng viên như sau:
Một là, góp phần thực hiện thắng lợi quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi đường lối, chính sách đã được xác định, phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu và trọng tâm của sự lãnh đạo phải chuyển từ việc soạn thảo các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật sang việc tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện. Công tác kiểm tra, giám sát là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện, là biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu. Thông qua kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống; giúp mỗi cán bộ, đảng viên phát huy tốt vai trò, trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, tạo sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên.
Sức mạnh của tổ chức đảng được tạo thành bởi nhiều yếu tố, trong đó công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là nhân tố quan trọng nhất, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở cơ quan, đơn vị, địa phương. Tổ chức đảng các cấp trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên; mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên đều chịu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng. Thực tiễn cho thấy, nếu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng được nâng cao thì công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được nâng tầm và phát huy hiệu quả. Mặt khác, khi hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được thực thi nghiêm thì năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng cũng được đề cao, giữ vững. Do đó, kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chính là hoạt động nhằm tăng lên sức mạnh cho tổ chức đảng.
Ba là, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện
Sự trong sạch, vững mạnh của mỗi tổ chức đảng gắn liền với hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Bên cạnh việc phát huy dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, đảng viên có môi trường làm việc tốt, bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình thì cần phải gắn với kỷ cương, kỷ luật. Kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đối với cán bộ, đảng viên giúp phòng ngừa, ngăn chặn từ sớm, từ xa những biểu hiện vi phạm về đạo đức, lối sống, những điều đảng viên không được làm, nhất là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực; qua đó, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh thái độ, suy nghĩ, hành vi đúng với các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng, đúng với Điều lệ và các quy định của Đảng; đồng thời, là sự cảnh tỉnh, cảnh báo đối với cán bộ, đảng viên khác không đi vào “vết xe đổ” của những người vi phạm, luôn đặt mình trong tổ chức, đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân.
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng thời gian qua
Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quy định quan trọng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, như: Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 14-02-1998, của Bộ Chính trị khóa VIII, “Về tăng cường công tác kiểm tra của Đảng”; Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30-7-2007, Hội nghị Trung ương 5 khóa X, “Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng”; Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng”; Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm”; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 9-12-2021, của Ban Bí thư “Thực hiện một số nội dung Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng”; Hướng dẫn số 02-HD/UBKTTW, ngày 29-11-2021, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương “Thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm”. Qua đó, đã làm chuyển biến sâu sắc về nhận thức, hành động của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là ở cấp Trung ương. Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”(5). Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thành lập 36 đoàn kiểm tra do các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư làm trưởng đoàn, kiểm tra 110 tổ chức đảng (tăng 59% so với nhiệm kỳ XI)(6). Trong nhiệm kỳ XII, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 264.201 tổ chức đảng và 1.124.146 đảng viên, trong đó có 272.556 đồng chí là cấp ủy viên các cấp (tăng 8,42% tổ chức đảng, 4,83% đảng viên, 19% cấp ủy viên so với nhiệm kỳ Đại hội XI).
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật vẫn còn một số hạn chế: Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng ở một số nơi chưa có trọng tâm, trọng điểm, nhất là đối với những lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp, như đất đai, tài chính, bảo hiểm, y tế; việc xử lý cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy ở một số nơi còn nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm; cơ quan kiểm tra, giám sát có nơi, có lúc chưa phát huy hết tinh thần, trách nhiệm trong xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung kiểm tra, xác định những vấn đề yếu kém, nổi cộm, nhất là phát hiện dấu hiệu vi phạm để ngăn chặn kịp thời; trong kiểm tra, giám sát ở một số nơi còn nể nang, né tránh, ngại va chạm, chưa nói thẳng, nói thật, thậm chí bao che, dung túng cho những hành vi sai trái, chưa dựa vào nhân dân để lắng nghe phản ánh những vi phạm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên… Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Việc kiểm tra, giám sát thực hiện một số nghị quyết của Đảng chưa thường xuyên. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm…; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời”(7).
Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra từ nhiệm kỳ Đại hội VII vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn… Vì vậy, đòi hỏi phải đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng thời gian tới
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho từng cán bộ, đảng viên về vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa hàng đầu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Từng cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; quán triệt nghiêm túc, đầy đủ các quan điểm, tư tưởng của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Người đứng đầu cấp ủy phải thường xuyên tuyên truyền, phổ biến chỉ thị, quy định, kết luận, hướng dẫn của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đến từng cán bộ, đảng viên; thường xuyên kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên theo kế hoạch đã đề ra, coi trọng kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm…
Hai là, nâng cao năng lực và phẩm chất của cán bộ ủy ban kiểm tra các cấp.
Ủy ban kiểm tra các cấp là cơ quan tham mưu, giúp việc, tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng. Trong quá trình hoạt động, cán bộ ủy ban kiểm tra các cấp phải nắm chắc nguyên tắc kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; xác định rõ nội dung kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ chủ chốt; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có “bàn tay sạch”, có tâm trong sáng, làm việc “đúng vai, thuộc bài”, có sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các bộ phận, lực lượng có liên quan; tuyệt đối tránh xa sự cám dỗ của lợi ích vật chất; không được lồng ghép mục đích, động cơ cá nhân vào quá trình kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng; có phẩm chất đạo đức vì sự tiến bộ, trưởng thành của đồng chí, đồng đội; không ngừng học hỏi nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát. Mỗi cán bộ của ủy ban kiểm tra các cấp phải thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải giữ được danh dự, uy tín của mình trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ chuyên trách tham mưu, dự thảo các quy định về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Đó là những người phải vừa “có đức, vừa “có tài”, am hiểu sâu sắc, toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, có tầm nhìn xa, trông rộng, có năng lực dự báo, đề ra được những quy định, yêu cầu chặt chẽ, khoa học, dễ thực hiện. Phát huy dân chủ trong thảo luận, đóng góp ý kiến của tập thể cán bộ, đảng viên trước khi ban hành. Tăng cường phối kết hợp với các chuyên gia, nhà khoa học có kinh nghiệm trong hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để xây dựng, bổ sung, hoàn thiện những cơ chế, chính sách kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng phù hợp với tình hình thực tiễn theo hướng bảo vệ cán bộ, đảng viên tố giác đúng các vi phạm của cấp trên; bảo vệ người đứng đầu dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì sự phát triển của đất nước. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Chú trọng đổi mới, kiện toàn bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp theo hướng chuyên nghiệp hóa”(8).
Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật”(9). Sau khi ủy ban kiểm tra các cấp tiến hành các bước xử lý về mặt Đảng đối với cán bộ, đảng viên vi phạm, tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả của sự việc, tiếp tục phối hợp với cơ quan bảo vệ pháp luật, như viện kiểm sát, tòa án để điều tra, truy tố, xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Xây dựng quy chế phối hợp làm việc nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả giữa ủy ban kiểm tra các cấp với các cơ quan có liên quan.
Ủy ban kiểm tra các cấp là cơ quan tham mưu, giúp việc, tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng. Trong quá trình hoạt động, cán bộ ủy ban kiểm tra các cấp phải nắm chắc nguyên tắc kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; xác định rõ nội dung kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ chủ chốt; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có “bàn tay sạch”, có tâm trong sáng, làm việc “đúng vai, thuộc bài”, có sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các bộ phận, lực lượng có liên quan; tuyệt đối tránh xa sự cám dỗ của lợi ích vật chất; không được lồng ghép mục đích, động cơ cá nhân vào quá trình kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng; có phẩm chất đạo đức vì sự tiến bộ, trưởng thành của đồng chí, đồng đội; không ngừng học hỏi nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát. Mỗi cán bộ của ủy ban kiểm tra các cấp phải thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải giữ được danh dự, uy tín của mình trong bất cứ hoàn cảnh nào.