Thực tế khẳng định, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng không chỉ là những chức năng lãnh đạo của Đảng mà còn là công cụ đắc lực góp phần quan trọng, có hiệu quả nhất vào cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
Nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 15.911 tổ chức đảng và 55.250 đảng viên (tăng 0,9% tổ chức, giảm 24,7% đảng viên so với nhiệm kỳ X).
Trong đó: UBKT Trung ương kiểm tra 13 tổ chức và 33 đảng viên (giảm 76% tổ chức và 74% đảng viên so với nhiệm kỳ X). Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có khuyết điểm, vi phạm; trong đó có vi phạm phải đề nghị thi hành kỷ luật 3 tổ chức bằng hình thức khiển trách; thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7, cảnh cáo 6).
UBKT các địa phương, đơn vị kiểm tra 15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng viên, trong đó có 24.231 cấp uỷ viên các cấp (chiếm 43,9%). Nội dung kiểm tra tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn nổi cộm, bức xúc, dễ phát sinh sai phạm, như: quản lý kinh tế, tài chính, quản lý đất đai, khoáng sản; trong chấp hành nguyên tắc tổ chức kỷ luật, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên… Qua kiểm tra, kết luận số tổ chức đảng có vi phạm 10.478, chiếm 65,8% so với tổng số tổ chức đảng được kiểm tra; phải thi hành kỷ luật 791 tổ chức, chiếm 7,6% so với số tổ chức đảng có vi phạm. Số đảng viên có vi phạm là 42.757, chiếm 77,3% so với số được kiểm tra; trong đó, phải thi hành kỷ luật 20.344 trường hợp, chiếm 47,6% so với số có vi phạm, đã thi hành kỷ luật 18.331 trường hợp. UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật 17.325 đảng viên (giảm 23,5% so với nhiệm kỳ X).
Trong đó: UBKT Trung ương đã thi hành kỷ luật 27 đảng viên (giảm 39% so với nhiệm kỳ X), bằng các hình thức: Khiển trách 14; cảnh cáo 12, cách chức 1 trường hợp. UBKT các địa phương, đơn vị đã thi hành kỷ luật 17.298 đảng viên; bằng các hình thức: Khiển trách 5.435; cảnh cáo 4.930; cách chức 518; khai trừ 6.415 trường hợp. Nội dung vi phạm chủ yếu là: những điều đảng viên không được làm; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý; vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống; vi phạm về đất đai, tài nguyên, khoáng sản; tham nhũng, cố ý làm trái...
Để phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên có hiệu quả, xin đề xuất một số giải pháp:
1. Nhận thức rõ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong sinh hoạt đảng
Hơn lúc nào hết, cần quán triệt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1952, Hồ Chí Minh chỉ rõ khi tự phê bình và phê bình phải nhằm vào những việc thật thiết thực; phải trả lời những câu hỏi sau: Mình có tham ô không? Có lãng phí của cải, tài sản của Đảng, Chính phủ, Nhân dân không? Có phô trương hình thức, quan liêu, xa cách quần chúng không?
Hồ Chí Minh đòi hỏi: “phải đào tận gốc rễ những khuyết điểm. Không nên tô vẽ, che giấu. Không nên ít thít ra nhiều, cũng không nên nói việc nhỏ, bỏ việc lớn, nói việc cũ quên việc mới”. [1]
Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với điều kiện mới, hiện nay, khi tiến hành phê bình và tự phê bình, mỗi cán bộ, đảng viên trước hết là những người lãnh đạo, quản lý phải trực tiếp trả lời những câu hỏi sau: Có lợi dụng chức quyền để tham nhũng, nhận quá tiêu chuẩn nhà, đất, xăng xe không? Có lợi dụng chức quyền để nhận hối lộ, ức hiếp Nhân dân làm những việc bất chính khi giải quyết công việc không? Có lợi dụng sơ hở của cơ chế, chính sách để làm giàu bất chính không? Có dung túng cho vợ con hoặc người thân trong gia đình lợi dụng chức quyền của mình để nhận quà, nhận hối lộ, vi phạm pháp luật và đạo đức không?
Nếu sinh hoạt đảng, sinh hoạt cơ quan, nhất là khi thực hiện tự phê bình và phê bình, chỉnh đốn Đảng, mỗi đảng viên, đặc biệt là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo đều đặt ra và trả lời trung thực, đầy đủ những câu hỏi trên thì chắc chắn tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ được ngăn chặn.
2. Hoàn thiện các quy định, quy chế của Đảng góp phần phòng, chống suy thoái
Hoàn thiện các quy định, cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ để bảo đảm đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả sự suy thoái của cán bộ, đảng viên. Phòng, chống suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên phải đi đôi và đồng bộ với phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị. Sớm ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ trong Đảng, Quy chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, Quy chế về chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; Quy chế quản lý, thay thế cán bộ, Quy chế quản lý đảng viên; Quy định về chế độ trách nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng. Hoàn chỉnh các quy định về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên. Quy chế để mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Tiếp tục hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ, công chức, nhất là trong những ngành nghề, lĩnh vực nhạy cảm, gây bức xúc trong dư luận, dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
3. Đổi mới lãnh đạo, chỉ đạo về kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp
Coi trọng và thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát cán bộ, đảng viên trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống và xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh những trường hợp vi phạm theo kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và bằng pháp luật. Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có kết quả Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; Quy chế chất vấn trong Đảng; Quy chế giám sát trong Đảng… Sớm nghiên cứu ban hành cơ chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có kết quả việc kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức, cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, việc thực hiện kê khai tài sản, thu nhập để ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực làm trái nhằm trục lợi, kê khai không trung thực. Đổi mới, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra cán bộ, đảng viên, công chức theo phương châm "giám sát phải mở rộng", "kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm" nhằm ngăn chặn những tác động xấu, môi trường dễ phát sinh tư tưởng, hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Phát huy vai trò giám sát của mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng đối với cán bộ, đảng viên trong việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống; kịp thời biểu dương, khen thưởng những cá nhân tiêu biểu, xử lý kiên quyết, nghiêm minh, dứt điểm, công khai các vi phạm, bất kể người đó là ai. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, phạm vi lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng của các cấp uỷ, các tổ chức đảng và của chi bộ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng của UBKT các cấp. Nghiên cứu xây dựng các cơ chế giám sát của tổ chức đảng cấp dưới đối với cấp ủy cấp trên, của đảng viên đối với cấp ủy và cá nhân cấp ủy viên, cán bộ lãnh đạo cùng cấp.
Tập trung chỉ đạo kiểm tra, giám sát cấp uỷ viên các cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ các cấp quản lý, cán bộ tham mưu chiến lược, trước hết là người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở các cơ quan nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước ở Trung ương và địa phương. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ ở các cơ quan nhà nước trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, các quy định, quy chế, kết luận của Đảng; việc lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Tập trung vào kiểm tra, giám sát các lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm như: quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân sách, đầu tư phát triển, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Thông qua kiểm tra, giám sát, đề xuất các cơ quan đảng, nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đề xuất cơ chế để Nhà nước nắm và kiểm soát được tiền vốn, tài sản trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, ngăn ngừa xảy ra thất thoát, lãng phí, tham nhũng, gây thiệt hại cho Nhà nước, ảnh hưởng đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn của UBKT cấp trên đối với UBKT cấp dưới và sự phối hợp giữa UBKT cấp dưới với UBKT cấp trên trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Thực hiện thường xuyên việc trao đổi, cung cấp thông tin giữa cấp uỷ, UBKT với các tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội, cơ quan báo chí về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Nâng cao hiệu quả phối hợp thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, giám sát của các cơ quan nhà nước, công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là trong việc chủ động cung cấp, trao đổi thông tin tài liệu về dấu hiệu vi phạm, đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên... Đoàn kiểm tra của cấp ủy cần bố trí thành phần có đủ thẩm quyền, năng lực chuyên môn nghiệp vụ giúp cấp uỷ, UBKT có thể kết luận đúng đắn kết quả kiểm tra và kiến nghị kiểm tra.
4. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng cán bộ kiểm tra các cấp
Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan UBKT theo mô hình thống nhất từ Trung ương đến cấp quận, huyện và tương đương, bảo đảm hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo hướng: Đổi mới cơ chế bầu UBKT các cấp theo cách UBKT do đại hội đảng cùng cấp bầu, tăng số lượng và cơ cấu thành viên UBKT các cấp. Tăng thẩm quyền cho UBKT, tăng vị trí độc lập xem xét, xử lý và kỷ luật đảng viên cho UBKT các cấp. Thống nhất về tổ chức bộ máy giữa cơ quan kiểm tra của Đảng và cơ quan thanh tra của Nhà nước theo mô hình"một nhà hai cửa"; trước mắt, chỉ đạo thực hiện thí điểm việc UBKT các cấp do đại hội đảng cùng cấp bầu và sáp nhập cơ quan thanh tra của Nhà nước vào cơ quan kiểm tra của Đảng ở một số tỉnh ủy, thành uỷ, huyện uỷ, sau đó tổng kết, nếu thấy có hiệu lực, hiệu quả thì tiến hành chỉ đạo, tổ chức thực hiện trên diện rộng. Đổi mới nhiệm vụ, nội dung, phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát, trong đó có công tác điều tra hành vi sai phạm của đảng viên, tổ chức đảng. Kết hợp và phối hợp với các tổ chức đảng, cơ quan có liên quan trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên.
Việc kết hợp, phối hợp trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát có vị trí, vai trò rất quan trọng, vì đó là một trong những khâu của phương thức, phương pháp, quy trình lãnh đạo của Đảng, đồng thời là một trong những phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng huy động mọi nguồn lực, tạo sức mạnh tổng hợp bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp, quy trình, thủ tục, dân chủ, khách quan, thận trọng, chặt chẽ, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
---------------------------
1- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, tập 6, tr.492.